Năm 1870, Mendeleep đã tiên đoán về sự tồn tại của nguyên tố này căn cứ vào vị trí của nó trong cùng nhóm với lưu huỳnh, selen và telu. Tuy nhiên phương pháp hóa học thông thường trước đây không áp dụng được để tìm ra nguyên tố này vì nó thuộc dòng dõi của những nguyên tố phóng xạ tự nhiên.
-Liền sau khi Beccơren khám phá ra hiện tượng phóng xạ, nhà nữ vật lý và hóa học Balan Mari Sklađopska, vợ của giáo sư Pie Quyri, bắt tay nghiên cứu một cách có hệ thống hiện tượng này. Bởi vì tia phóng xạ có khả năng ion hóa không khí nên bà đã dùng máy điện nghiệm để đo. Bà muốn biết ngoài urani ra còn có những chất nào khác tương tự về tính chất như urani không.
-Đề tài luận án tiến sĩ của bà đã được thực hiện theo hướng này. Bà phát hiện quặng urani thiên nhiên có tính phóng xạ gấp nhiếu lần so với oxit nguyên chất của nó. Bà bắt đầu tách quặng ra nhiều phân đoạn và xác định tính phóng xạ của chúng. Phân đoạn tách với bitmut sunfua có tính phóng xạ gấp 400 lần so với urani. Vì rằng bitmut sunfua tinh khiết không có tính phóng xạ nên bà đưa ra giả thuyết rằng trong phân đoạn này chắc chắn phải có một nguyên tố phóng xạ mạnh tồn tại dưới dạng tạp chất.
-Tại cuộc họp của Viện Hàn lâm khoa học Pari ngày 18 tháng 7 năm 1898, ông bà Quy ri đã đọc bản báo cáo nhan đề “về một chất phóng xạ mới có chứa trong quặng urani”. Thuật ngữ “tính phóng xạ” lần đầu tiên được đưa ra trong bản báo cáo này để nhấn mạnh nguyên tố được tìm ra bằng một phương pháp mới. Họ đề nghị đặt tên nguyên tố là poloni (từ tiếng latinh “Polonia” là tổ quốc Balan của bà Curie).
-Đến năm 1912 thì nguyên tố này chính thức chiếm ô 84 trong bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học.
-Trữ lượng poloni trong vỏ quả đất bằng 2.10-14 % về trọng lượng, do đó nó thuộc vào loại nguyên tố ít phổ biến nhất trong tự nhiên. Cho đến nay cũng chưa điều chế được nó ở dạng nguyên chất và trong các chế hóa thì lượng poloni giàu nhất cũng chỉ chứa khoảng 5%.
-Ứng dụng thực tế của poloni cho đến nay vẫn chưa có nếu không kể đến việc dùng nó làm nguồn phát ra hạt α rẻ tiền.
-Gần đây, poloni được điều chế nhân tạo bằng cách dùng nơtron bắn phá bitmut:
83Bi209 + 0n1 -> 83Bi210 – β -> 84Po210
victonh.worldpress.com